Vắng mặt trong giai đoạn hòa giải và chuẩn bị xét xử
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì Toà án sẽ tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Thông báo về việc tiến hành hòa giải sẽ được Tòa án gửi cho cả nguyên đơn và bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (nếu có). Tuy nhiên trong trường hợp nếu bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì sẽ coi vụ án ly hôn của vợ chồng không tiến hành hoà giải được (theo khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.
Quy định tại điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015:
- Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa.
- Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau: Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Như vậy, trong trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì vụ án ly hôn của vợ chồng sẽ được Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
Ly hôn đơn phương mất thời gian bao lâu?
Theo quy định tại Điều 54 Luật hôn nhân gia đình 2014 về trình tự giải quyết vụ việc dân sự thì: “Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”. Theo khoản 1, khoản 4 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về thời hạn chuẩn bị xét xử:
Khoản 1: Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Khoản 4: Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.”
Như vậy, thời hạn cho việc giải quyết đơn phương ly hôn là 04 tháng (được tính kể từ khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án). Tuy nhiên, nếu như vụ án có tính chất phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì có thể được gia hạn nhưng không quá 02 tháng. Tòa án phải mở phiên tòa trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.